Edward Jenner là một bác sĩ ở vùng nông thôn của đất nước Anh. Năm 1796, châu Âu xảy ra dịch đậu mùa (căn bệnh có thể gây tử vong hoặc để lại sẹo xấu ở mặt), Jenner đã thực hiện thành công thử nghiệm vắc-xin ngừa bệnh này. Xuất phát từ việc nhận thấy những công nhân vắt sữa bò tiếp xúc trực tiếp bị lây bệnh đậu bò rồi thì sau này không bị bệnh đậu mùa. Đậu bò và đậu người là 2 loại virus có cùng nguồn gốc từ một chi Orthopoxvirus (tuy nhiên đây là điều mà thời đó chưa ai biết đến). Ông lấy vảy đậu bò của bệnh nhân Sarah Nelmes cấy vào cánh tay của bé trai 8 tuổi có tên là James Phipps. Bé đã có những biểu hiện của bệnh đậu bò sau đó. 48 ngày sau, Phipps khỏi hẳn bệnh đậu bò, Jenner liền tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa cho Phipps, nhưng Phipps không mắc bệnh. Việc làm này dựa trên cơ sở miễn dịch chéo giữa đậu mùa và đậu bò vì chúng có bản chất kháng nguyên tương tự nhau, tuy nhiên đây là cơ sở miễn dịch học mà thời đó chưa hề được biết đến. Từ câu chuyện này mà có được từ “vắc-xin” vì từ này xuất phát từ “vaccinia” – là loại virus gây bệnh đậu bò (vacca-bò cái). Đây là một phát minh vĩ đại của nhân loại, ngoài nước sạch thì tiêm chủng là biện pháp bảo vệ sức khỏe hữu hiệu bậc nhất.
Thời bấy giờ thì ngành vi sinh học vẫn chưa phát triển, Edward Jenner công bố thử nghiệm của mình vào năm 1798 thì người ta chỉ biết là có "mầm bệnh" gây nên bệnh nhiễm trùng.
Tiếp theo sau đó là những cống hiến rực rỡ của Louis Pasteur cho ngành vắc xin học.
Louis Pasteur nghiên cứu vắc-xin phòng bệnh tả đầu tiên khi dịch tả tàn sát đàn gà. Ông đem tiêm cho gà vi khuẩn tả đã được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, sau đó những con bị tiêm chết sạch. Ông chuẩn bị một bình dịch huyền phù nuôi cấy vi khuẩn tả trước khi đi nghỉ mát. Khi trở về, ông lại lấy dịch huyền phù đó đem tiêm cho gà. Lần này thì gà chỉ bị bệnh nhẹ rồi cả đàn hết bệnh. Ông hiểu ra rằng đám vi khuẩn trong dịch huyền phù đó đã bị biến tính, suy yếu khi ông đi vắng. Ông bèn lấy vi khuẩn tả đem tiêm cho những con gà vừa trải qua tiêm chủng và những con chưa hề được tiêm chủng. Kết quả là những con nào từng được tiêm chủng thì có khả năng đề kháng lại mầm bệnh, còn lại chết hết. Qua đó, ông đã xác nhận các giả thuyết của Edward Jenner. Điều đó đã mở đường cho ngành miễn dịch học phát triển.
Từ đó, có rất nhiều vắc-xin ra đời phục vụ công tác phòng chống bệnh truyền nhiễm của nhân loại. Tiêm chủng đã kiểm soát 14 bệnh phổ biến trên toàn cầu: bệnh đậu mùa, bạch hầu, uốn ván, sốt vàng, ho gà, bệnh do HIB, bại liệt, sởi, quai bị, rubella, thương hàn, dại, rotavirus và viêm gan B. Nguyên tắc vẫn như cũ: gây mẫn cảm bằng một vi sinh vật nói chung như vi khuẩn hoặc virus giảm độc lực, hoặc với một protein đặc hiệu có tính kháng nguyên vi sinh vật để gây ra một đáp ứng miễn dịch, rồi tạo một trí nhớ miễn dịch đặc hiệu, từ đó tạo ra sức đề kháng cho cơ thể về sau khi tác nhân gây bệnh xâm nhập.
Dưới đây là bảng liệt kê lịch sử ra đời của các loại vắc-xin trên toàn cầu
Năm |
Vắc-xin |
1798 |
Đậu mùa |
1885 |
Dại |
1896 |
Thương hàn, Tả |
1927 |
Lao |
1926 |
Ho gà |
1923 |
Bạch hầu |
1935 |
Sốt vàng |
1936 |
Cúm |
1926 |
Uốn ván |
1963 |
Bại liệt (uống), Sởi |
1955 |
Bại liệt (tiêm) |
1977 |
Phế cầu |
1967 |
Quai bị |
1992 |
Viêm não Nhật Bản |
1985 |
Nhiễm trùng do HIB |
1969 |
Rubella |
1999 |
Não mô cầu nhóm C |
1980 |
Bệnh do Adeno virus |
1996 |
Viêm gan A |
1987 |
Nhiễm trùng do HIB (vắc-xin cộng hợp) |
1989 |
Thương hàn (type 2 1a) |
1981 |
Viên gan B |
1995 |
Thủy đậu |
1999 |
Viêm dạ dày ruột do Rotavirus |
1970 |
Bệnh than |
2009 |
Viêm não Nhật Bản (tế bào vero) |
2000 |
Phế cầu (10 chủng) |
2010 |
Phế cầu (13 chủng) |
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Viện Pasteur Tp. Hồ Chí Minh (2017), An toàn tiêm chủng, NXB Y học.
Plotkin (2018), Vaccines, Elsevier.