Bệnh học

BỆNH BẠI LIỆT

Bại liệt là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut bại liệt gây ra, bệnh lây theo đường hô hấp và đường tiêu hoá. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu là những biểu hiện liệt mềm ngoại vi, không có rối loạn cảm giác kèm theo.

 

 

  1. Dịch tễ học

Bại liệt là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut bại liệt gây ra, bệnh lây theo đường hô hấp và đường tiêu hoá. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu là những biểu hiện liệt mềm ngoại vi, không có rối loạn cảm giác kèm theo.

Bệnh do Heine mô tả lần đầu tiên vào năm 1840, sau đó là Medin (1887) nên còn được gọi là bệnh Heine - Medin.

Mầm bệnh

Virut bại liệt (poliovirus) do Landsteiner và Popper tìm ra năm 1909, là một virut hình cầu, kích thước nhỏ, đường kính 8-27 nm, có cấu tạo là ARN và protein, không có chất béo.

Virut bại liệt có 3 typ kháng nguyên khác nhau và không gây miễn dịch chéo:

Typ I: Điển hình là chủng Brunhilde.

Typ II: Điển hình là chủng Lansing.

Typ III: Điển hình là chủng Leon.

Trong đó typ I chủ yếu gây bệnh cho người ở thể điển hình, typ II gây bệnh thể ẩn và typ III ít gây bệnh hơn.

Virut có tính chịu đựng cao với ngoại cảnh: trong phân người chúng sống được vài ngày đến vài tuần, trong nước có thể tới 14 ngày. Dễ bị diệt bằng các thuốc khử trùng thông thường như: Chloramin B, H2O2, thuốc tím và tia cực tím... Ở 60°C, virut bị diệt trong 30 phút.

Nguồn bệnh

Là những bệnh nhân bị bệnh bại liệt. Virut có ở họng và ở phân người bệnh trước và sau khi khởi phát có thể đến 2 tuần hoặc hơn.

Ngoài ra, người mang virut không có triệu chứng lâm sàng (người lành mang virut) cũng là một nguồn lây quan trọng.

Đường lây

Bằng việc phân lập được virut ở họng, người ta đã xác định được virut bại liệt lây theo đường hô hấp trong thời kỳ đầu của bệnh.

Nhưng bệnh lây chủ yếu bằng đường tiêu hoá thông qua tay và dụng cụ nhiễm bẩn với vật chủ trung gian truyền bệnh là ruổi. Virut được thải ra theo phân của người bệnh trong thời gian dài (tới vài tháng) và xâm nhập vào đường tiêu hoá (miệng) của người lành.

Sức cảm thụ

Người có sức thụ bệnh cao với virut bại liệt. Tuổi hay gặp là trẻ em 2 - 8 tuổi, đặc biệt là trẻ 2 - 4 tuổi chiếm tới 60-80%, trẻ sơ sinh và người lớn có thể bị nhưng ít hơn và thường là không điển hình.

Tính miễn dịch

Sau khi bị bệnh bại liệt bệnh nhân thường có miễn dịch bền vững, hiếm khi mắc lại.

Tính chất dịch

Bệnh thường tản phát, đôi khi thành dịch ở những tập thể nhỏ như nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường phổ thông cơ sở. Gặp ở thành phố nhiều hơn nông thôn và hay xảy ra vào cuối mùa xuân, đầu mùa hè hàng năm.

Nhờ có vacxin, nhiều nước trên thế giới đã đẩy lùi và thanh toán tận gốc bệnh bại liệt. Ở Việt Nam, bệnh được xếp vào một trong các bệnh nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em. Tháng 3/2000 nước ta đã được Tổ chức Y tế thế giới công nhận là đã thanh toán được bệnh bại liệt.

  1. Lâm sàng

Thể thông thường điển hình

(Hay thể liệt - Paralytic poliomyelitis), chiếm 1% trong số các thể bệnh.

Thời kỳ nung bệnh

Khoảng 5-35 ngày, trung bình 6-20 ngày.

Thời kỳ khởi phát (hay giai đoạn tiền liệt)

Khoảng 3-7 ngày với nhiều biểu hiện phong phú:

  • Sốt: Khởi phát đột ngột, đa số sốt nhẹ, một số trường hợp sốt cao 39-40°C trong 3 - 4 ngày.
  • Viêm long đường hô hấp trên: ho khan, hắt hơi, chảy nước mắt nước mũi, giọng nói khàn.
  • Rối loạn tiêu hoá: nôn, buồn nôn, đi ngoài phân táo hoặc lỏng.
  • Rối loạn thần kinh thực vật: trẻ vã nhiều mồ hôi, nét mặt lúc tái lúc hồng, mạch chậm (ngược lại với mạch nhanh khi sốt cao).
  • Trạng thái tâm thần kinh: li bì hoặc vật vã, hay kêu khóc.
  • Đau và co cứng các cơ là dấu hiệu rất sớm và phổ biến. Đây là những dấu hiệu rất có giá trị để chẩn đoán sớm vì những cơ nào đau sẽ phát triển liệt, thường đau và co cứng các cơ vùng cổ, thân mình và sau đùi làm trẻ mệt mỏi, sức cơ yêu, trương lực cơ giảm, đôi khi có hiện tượng co giật nhẹ ở những cơ sau này sẽ bị liệt. Kèm theo có biểu hiện giảm hoặc mất phản xạ (khi mất phản xạ da bụng tới 80% có liệt chi dưới).
  • Hội chứng màng não: nhức đầu nhiều (kèm theo nôn, buồn nôn). Khám các dấu hiệu thực thể: cứng gáy (+), Kermig (+), Brudzinski (+). Ở trẻ nhỏ dưới 18 tháng có thể thấy thóp phồng hoặc dấu hiệu Hoyne (+): để trẻ nằm ngửa, dùng 2 tay thầy thuốc nâng nhẹ 2 vai trẻ, đầu trẻ không ngóc lên được theo.

Xét nghiệm dịch não tuỷ có thể thấy tế bào tăng nhẹ, protein bình thường hoặc tăng ít, glucose và NaCl bình thường.

Thời kỳ toàn phát (hay giai đoạn liệt)

Đặc điểm của liệt

  • Liệt nhẽo ngoại vi, không đối xứng.
  • Liệt không theo một thứ tự nhất định.
  • Liệt xảy ra đột ngột và nhanh, thường xuất hiện vào ngày thứ 4 - 7 của bệnh, khi nhiệt độ đã về bình thường hoặc hết sốt trước đó 1-2 ngày. Từ khi bắt đầu có liệt đến khi liệt không tiến triển nữa chỉ trong vòng 48-72 giờ.
  • Các cơ bị liệt thường yếu, trương lực cơ giảm, mất hoặc giảm phản xạ gân xương và phản xạ da, cơ teo nhanh. Điểm đáng chú ý là ở các cơ này không có những rối loạn cảm giác kèm theo.

Định khu của liệt

Tuỳ theo vị trí tổn thương có các thể sau:

  • Thể tuỷ sống, chiếm 60-70% thể có liệt.

+ Tổn thương tuỷ cổ: liệt cơ cổ, vai, gáy, chi trên (cơ vai) và cơ hoành.

+ Tổn thương tuỷ thắt lưng: liệt các cơ bụng dưới và chi dưới.

  • Thể hành tuỷ: tổn thương hành tuỷ đơn thuần hiếm gặp mà thường kết hợp với tổn thương tuỷ sống. Các biểu hiện tổn thương hành tuỷ:

+ Rối loạn hô hấp: nấc nhiều, khó thở, rối loạn nhịp thở.

+ Rối loạn tuần hoàn: mạch không đều hoặc trụy mạch, rối loạn nhịp tim, huyết áp dao động và có xu hướng giảm.

+ Rối loạn thần kinh thực vật: sốt cao, vã nhiều mồ hôi, da tím tái.

Đây là thể rất nặng, tử vong cao (50-90% ).

  • Thể tủy sống - hành tuỷ: là tổn thương phối hợp 2 thể trên, chiếm 15-25% các thể có liệt.
  • Thể não: có thể đơn thuần hoặc phối hợp với tổn thương hành tuỷ, tuỷ sống. Nếu là thể não lan toả đơn thuần thường rất khó phân biệt với viêm não do các loại virut khác. Đây là thể hiếm gặp, tiến triển kéo dài và để lại nhiều di chứng.

Các triệu chứng khác

  • Dấu hiệu đau cơ: tăng lên khi bắt đầu liệt, kéo dài vài ngày sau đó giảm dần. Kèm theo đỡ đau đầu, tỉnh táo hơn, ăn ngủ khá hơn, đỡ mệt mỏi.
  • Xét nghiệm

+ Bạch cầu máu ngoại vi bình thường hoặc có thể tăng trong một vài ngày, sau đó về bình thường.

+ Xét nghiệm dịch não tuỷ: tế bào tăng (thường tăng vài chục đến vài trăm bạch cầu, nhưng hiếm khi tới 1000 bạch cầu/mm3), tăng cao nhất vào tuần 2-3 của bệnh. Công thức tế bào: lúc đầu chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính, sau vài ngày bạch cầu lympho chiếm ưu thế dần và trở về bình thường từ tuần thứ 4 của bệnh. Protein trong dịch não tuỷ có thể tới 1-2 g/1, cao nhất vào tuần thứ 3 và trở về bình thường sau 1-2 tháng. Khoảng 10% số trường hợp có dịch não tuỷ bình thường. Tuy nhiên, tế bào tăng và protein tăng không liên quan đến mức độ bệnh.

+ Phân lập virut: từ máu (trước khởi phát 2-3 ngày và sau khởi phát 1-2 ngày), từ nhầy họng (trước khởi phát và kéo dài 10 ngày sau khởi phát), từ phân (trước khởi phát và kéo dài tới khi hồi phục).

+ Huyết thanh chẩn đoán: phản ứng kết hợp bổ thể và phản ứng trung hoà.

Thời kỳ hồi phục và di chứng

  • Hồi phục sớm: trong 6 tuần đầu của bệnh, các cơ bị liệt phục hồi nhanh, giảm và hết đau, chỉ để lại một số ít cơ và nhóm cơ bị liệt hoàn toàn. Đó là do đa số các neuron thần kinh chi phối các cơ liệt lúc đầu chỉ bị phù nề và rối loạn chức năng, sau đó hổi phục.
  • Hồi phục muộn: sau 6 tuần tới 2-3 năm, có cơ bị liệt giảm chậm và không rõ ràng, nhiều cơ bị liệt hoàn toàn.
  • Di chứng: là những tổn thương không hồi phục sau 3 năm.

Một số thể lâm sàng khác

Thể không triệu chứng lâm sàng

Chiếm tới 80-85% các thể bệnh. Chẩn đoán xác định dựa vào việc phân lập virut từ phân bệnh nhân và sự có mặt của kháng thể trong huyết thanh.

Thể nhẹ (Abortive poliomyelitis)

Chiếm 4-8%, biểu hiện bằng triệu chứng viêm long đường hô hấp trên, rối loạn tiêu hoá và một số triệu chứng giống cúm (sốt, đau khớp). Chẩn đoán cũng phải dựa vào phân lập virut và phản ứng huyết thanh.

Thể không liệt (Non paralytic poliomyelitis)

Chiếm 10%. Bệnh nhân có các triệu chứng của thời kỳ tiền liệt (ở thể liệt), nổi bật là hội chứng màng não và các dấu hiệu kích thích màng não nhưng không có liệt.

3. Dự phòng

Dự phòng chung

  • Trong thời gian dịch xảy ra phải cách ly bệnh nhân ít nhất 2-4 tuần.
  • Những trẻ có sốt, viêm xuất tiết đường hô hấp, rối loạn tiêu hoá chưa rõ nguyên nhân phải được giữ tại nhà và theo dõi hàng ngày.
  • Những người tiếp xúc và làm nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân phải được theo dõi sát. Nếu có triệu chứng nghi ngờ: dấu hiệu màng não, đau dọc sống lưng và cổ, giảm trương lực ở một số cơ ... phải xét nghiệm dịch não tuỷ và cách ly.
  • Cân nhắc việc cắt Amydan hoặc nạo V.A cho trẻ ở vùng dịch.
  • Đối với những bệnh nhân thể nhẹ hoặc thể không có liệt cần hạn chế vận động, tránh kích thích đau cho đến khi hết triệu chứng lâm sàng.

Dùng vacxin

  • Vacxin sống giảm độc lực (OPV) : dùng đường uống, gây được miễn dịch lâu bền, chống lại được sự xâm nhập của virut hoang dại (do tạo được miễn dịch tại ruột), đạt hiệu quả 90-100%.
  • Vacxin bại liệt tiêm đa giá (IPV): khi trẻ được 5 tháng tuổi.

Tất cả trẻ em được uống 3 lần vacxin OPV vào lúc 2, 3, 4 tháng tuổi và tiêm vào lúc 5 tháng tuổi. Nhờ có các vacxin này mà nhiều nước đã đẩy lùi và thanh toán được bệnh bại liệt, trong đó có nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bùi Đại, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Hoàng Tuấn (2005), Bệnh học truyền nhiễm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

 

Phòng Khám Tư Vấn Và Điều Trị Dự Phòng Vắc Xin Đồng Nai

Chúng tôi cam kết đem đến cho khách hàng cảm nhận hoàn toàn mới về dịch vụ tiêm chủng với tiêu chí chất lượng dịch vụ hoàn hảo.

Địa chỉ: 107A Nguyễn Ái Quốc KP8 Phường Tân Phong Biên Hoà Tỉnh Đồng Nai

Hotline: 0251.626.9999

Email: [email protected]

Website: https://trungtamvacxindongnai.com

Facebook:  https://www.facebook.com/Tiemchungvacxindongnai/ 

 

Bạn cần
hỗ trợ