Bệnh học

BỆNH HO GÀ

Ho gà là bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn ho gà gây ra, bệnh lây theo đường hô hấp. Biểu hiện lâm sàng bằng những cơn ho dữ dội, đặc biệt.

 

1. Đặc điểm dịch bệnh

Ho gà là bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn ho gà gây ra, bệnh lây theo đường hô hấp. Biểu hiện lâm sàng bằng những cơn ho dữ dội, đặc biệt.

Mầm bệnh

  • Trực khuẩn ho gà thuộc họ Pavrobacteriaceae, trước đây được xếp vào giống Haemophilus nhưng về sau người ta thấy nó không có liên quan với kháng nguyên Haemophilus nên được gọi là Bordetella pertussis, do Bordet và Gengou phát hiện năm 1906-1908.
  • Là trực khuẩn gram âm, hai đầu nhọn, kích thước 0,3-0,5x1-1,5pm, ưa khí, không di động, không sinh nha bào. Nuôi cấy thích hợp ở nhiệt độ 37°C, phát triển tốt ở môi trường máu. Ở môi trường Bordet-Gengou (gồm khoai tây, glyxeron, pepton, thạch máu) sau 24 giờ đã mọc khuẩn lạc. Vi khuẩn kém chịu đựng với nhiệt độ: dưới ánh sáng mặt trời chết sau 1 giờ, ở nhiệt độ 55°C chết sau 30 phút.
  • Khi mới phân lập, B. pertussis có vỏ là một kháng nguyên đa đường, ngoài ra nó còn có kháng nguyên bề mặt và kháng nguyên ngưng kết hồng cầu. Vi khuẩn tiết ra nội độc tố gổm hai loại: chịu nhiệt và không chịu nhiệt. Độc tố chịu nhiệt có tính protein, tạo được giải độc tố và kích thích cơ thể hình thành miễn dịch kháng độc tố.

Nguồn bệnh

Là những bệnh nhân bị bệnh ho gà. Bệnh lây lan mạnh nhất trong tuần đầu của bệnh, khi có những biểu hiện viêm long đường hô hấp và những cơn ho đầu tiên. Đặc biệt chú ý là những trường hợp không điển hình, bệnh nhân không được cách ly nên dễ lây sang xung quanh. Cho đến nay vẫn chưa xác định có người lành mang khuẩn.

Đường lây

Bệnh ho gà lây theo đường hô hấp do vi khuẩn có trong nhũng hạt nước bọt bắn ra từ mũi, miệng bệnh nhân khi ho, hắt hơi trực tiếp sang người lành. Phạm vi lây trong khoảng dưới 3 mét.

Vi khuẩn ho gà kém chịu đựng với ngoại cảnh nên không lây gián tiếp qua quần áo, chăn màn, đồ dùng của bệnh nhân.

Sức cảm thụ

Mọi lứa tuổi, giới, dân tộc, vùng địa lý đều có thể bị ho gà nhưng chủ yếu là trẻ em 1-6 tuổi dễ bị hơn, trẻ càng ít tuổi bệnh càng nặng. Đặc biệt bệnh ho gà thường đi kèm với những bệnh làm giảm sức đề kháng miễn dịch của cơ thể như bệnh sởi...

Tính miễn dịch

Sau khi bị bệnh ho gà bệnh nhân có miễn dịch bền vững suốt đời do đó rất hiếm khi mắc lại.

Tính chất dịch

Bệnh thường xảy ra quanh năm, mang tính lưu hành địa phương.

Gần đây, nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng và những tiến bộ trong điều kiện kinh tế - xã hội, bệnh ho gà đã giảm đáng kể trong nhân dân.

2. Cơ chế bệnh sinh và giải phẫu bệnh lý

Cơ chế bệnh sinh

- Những thương tổn ở phổi trong bệnh ho gà chủ yếu do độc tố của vi khuẩn gây ra. Trực khuẩn ho gà vào biểu mô đường hô hấp, phát triển nhân lên, không xâm nhập vào mạch máu. Tại đây chúng ức chế sự hoạt động của các tế bào biểu mô, gây viêm cấp tính đường hô hấp và kích thích niêm mạc tăng tiết nhầy. Thương tổn xảy ra chủ yếu ở phế quản và các tiểu phế quản.

  • Độc tố của vi khuẩn, một mặt kích thích trực tiếp vào các thụ cảm thần kinh của niêm mạc đường hô hấp gây ra các cơn ho điển hình, mặt khác tác động lên hệ thần kinh trung ương. Tại đây, độc tố ảnh hưởng trực tiếp đến trung khu hô hấp ở hành tuỷ, gây ra những biểu hiện rối loạn hô hấp, nếu nặng có thể ngừng thở. Độc tố còn có thể gây ra những ổ hưng phấn ở trung khu hô hấp, kết quả là tạo ra những cơn ho phản xạ kéo dài. Sự lan truyền của độc tố ở hệ thần kinh trung ương có thể dẫn tới biểu hiện viêm não - một biến chứng nặng của bệnh ho gà.
  • Vai trò của yếu tố miễn dịch thể dịch trong ho gà đã được biết rõ. Sau khi mắc bệnh, cơ thể xuất hiện các IgA tiết (ngăn cản vi khuẩn bám dính vào biểu mô đường hô hấp) và IgG trong huyết thanh có tác dụng miễn dịch chống nhiễm khuẩn. Vai trò của miễn dịch tế bào trong bệnh ho gà chưa được xác định đầy đủ.

Giải phẫu bệnh lý

Những tổn thương chủ yếu trong bệnh ho gà là:

  • Co thắt các phế quản và tiểu phế quản. Niêm mạc khí - phế quản bị tổn thương tại chỗ và có hiện tượng tăng tiết các dịch nhầy. Dịch tiết có thể lẫn mủ, mảnh niêm mạc, vi khuẩn và xâm nhập các tế bào, đặc biệt là tế bào lympho. Quanh phế quản và các mạch máu lân cận bị bao bọc bởi một lớp các tế bào lympho, tạo nên hình ảnh đặc biệt trong bệnh ho gà.
  • Trong lòng các phế nang xuất hiện nhiều dịch và các mô bào. Thành phế xung huyết, có nhiều tế bào lympho xâm nhập.
  • Có thể thấy hiện tượng phù nề ở tổ chức não và tổn thương các tế bào thần kinh nhưng không thấy có hiện tượng xâm nhập của tế bào lympho và các tế bào viêm khác vào tổ chức não.

3. Triệu chứng

Thể thông thường điển hình

Thời kỳ nung bệnh

2-30 ngày (trung bình 5-12 ngày).

Thời kỳ khởi phát (hay còn gọi giai đoạn xuất tiết, giai đoạn viêm long)

Thường từ 3-14 ngày với các biểu hiện.

  • Sốt nhẹ, từ từ tăng dần.
  • Các triệu chứng viêm long đường hô hấp: ho khan, hắt hơi, chảy nước mũi, đau rát họng, dần dần chuyển thành ho cơn.

Thời kỳ toàn phát (hay giai đoạn co thắt, giai đoạn ho cơn)

Kéo dài 1-2 tuần. Xuất hiện những cơn ho gà điển hình, xảy ra bất chợt, vô cớ cả ngày và đêm, ho nhiều về đêm, ho cả khi trẻ đang chơi, đang ăn hoặc khi quấy khóc. Cơn ho diễn biến qua 3 giai đoạn: ho, thở rít vào và khạc đờm.

  • Ho: ho rũ rượi, thành cơn, mỗi cơn từ 15-20 tiếng ho liên tiếp, càng về sau càng yếu và giảm dần. Khi ho lưỡi bị đẩy ra ngoài, lâu dần dẫn đến loét hãm lưỡi (ở trẻ chưa có răng không có triệu chứng này). Ho nhiều làm trẻ thở yếu dần có lúc như ngừng thở, mặt tím tái, mắt đỏ, tĩnh mạch cổ nổi, chảy nước mắt nước mũi.
  • Thở rít vào: xuất hiện cuối cơn ho hoặc xen kẽ sau mỗi tiếng ho, trẻ thở rít vào nghe như tiếng gà rít.
  • Khạc đờm: khi trẻ khạc đờm trắng, màu trong, dính như lòng trắng trứng là lúc kết thúc một cơn ho. Trong đờm có trực khuẩn ho gà, tế bào biểu mô phế quản và bạch cầu lympho.

Sau mỗi cơn ho trẻ bơ phờ mệt mỏi, có thể nôn, vã mồ hôi, mạch nhanh, thở nhanh. Kèm theo có thể thấy một số triệu chứng sau: sốt nhẹ hoặc hoặc không sốt, mặt và mi mắt nặng, loét hàm lưỡi, nghe phổi trong cơn ho có thể thấy một số ran phế quản.

Xét nghiệm trong thời kỳ này thường thấy:

  • Số lượng bạch cầu máu ngoại vi tăng cao tới 20.000-30.000/mm3, có khi tới 60.000 hoặc hơn. Trong đó chủ yếu là bạch cầu lympho (chiếm 60-80%).
  • Cấy nhầy họng trên môi trường Bordet - Gengou có thể cho tỷ lệ dương tính tới 92,1%.
  • Dùng phương pháp miễn dịch huỳnh quang cho kết quả nhanh nhưng tỷ lệ dương tính giả tới 40%.
  • X quang phổi: có các bóng mờ đi từ rốn phổi tới cơ hoành. Ngoài ra có thể thấy phản ứng mờ góc sườn hoành, hình mờ đáy phổi hoặc hình ảnh xẹp phổi.

Thời kỳ lui bệnh và hồi phục

Kéo dài khoảng 2-4 tuần. Số cơn ho giảm dần, thời gian mỗi cơn ngắn lại, cường độ ho giảm, khạc đờm ít, sau đó hết hẳn. Tình trạng toàn thân tốt dần lên, trẻ ăn được và vui chơi bình thường.

Xét nghiệm bạch cầu trở về bình thường hoặc giảm từ từ.

Tuy nhiên ở một số trẻ xuất hiện những cơn ho phản xạ kéo dài, thậm chí tới 1-2 tháng.

Một số thể lâm sàng khác

Theo lứa tuổi

  • Ho gà ở trẻ sơ sinh: thường diễn biến nặng, tỷ lệ tử vong cao.
  • Ho gà ở người lớn: ít gặp. Biểu hiện lâm sàng thường nhẹ, ho dai dẳng nhưng thở vào không rít lắm, ít nôn.

Theo mức độ

  • Thể thô sơ: không ho, chỉ hắt hơi nhiều.
  • Thể nhẹ: cơn ho nhẹ, ngắn và không điển hình, không khạc đờm nhiều. Thường gặp ở trẻ em đã tiêm vacxin phòng ho gà nhưng kháng thể thấp và tồn lưu ngắn. Thể này thường khó chẩn đoán.

4. Biến chứng

Biến chứng hô hấp

Chủ yếu là do bội nhiễm ở phổi, phế quản.

  • Viêm phế quản
  • Dãn phế quản
  • Viêm phổi - phế quản

Biến chứng thần kinh

Viêm não là một biến chứng nặng của bệnh ho gà, tỷ lệ tử vong cao. Trẻ sốt rất cao, li bì, hôn mê, co giật. Nếu được cứu thoát có thể để lại di chứng như liệt nửa người, liệt một chi, liệt dây thần kinh sọ não hoặc rối loạn tâm thần.

Biến chứng cơ học

Lồng ruột, thoát vị, sa trực tràng. Trường hợp nặng có thể gập vỡ phế nang, tràn khí trung thất hoặc tràn khí màng phổi.

Bội nhiễm

Trong hoặc ngay sau khi mắc bệnh ho gà, suy giảm đáp ứng miễn dịch, cơ thể trẻ dễ mắc một số bệnh khác như sởi, cúm...

5. Điều trị

  1. Kháng sinh đặc hiệu
  2. Điều trị triệu chứng

Giảm và cắt cơn ho

Chống nôn

Hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn

6. Phòng bệnh

Vacxin ho gà đã góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong, ở nước ta, ho gà được xếp vào một trong 11 bệnh nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em.

Trẻ em 2 tháng tuổi được tiêm 3 lần, mỗi lần cách nhau 1 tháng. Tiêm nhắc lại sau 1 năm, 3 năm5 năm.

Để phòng bệnh cho tập thể, cần phải cách ly những trẻ bị ho gà trong thời gian ít nhất 4 tuần kể từ khi có cơn ho điển hình. Những trẻ tiếp xúc phải được tiêm Gamma globulin đặc hiệu 0,3 ml/kg/lần, tiêm 2 lần cách nhau 48-72 giờ (tác dụng bảo vệ chống ho gà đạt 60% theo Combe và Fauchier), trong đó đặc biệt chú ý những trẻ sơ sinh và trẻ suy dinh dưỡng. Ngoài ra, có thể dùng Erythromyxin để phòng ho gà cho những trẻ em tiếp xúc với bệnh nhân.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bùi Đại, Nguyễn Văn Mùi, Nguyễn Hoàng Tuấn (2005), Bệnh học truyền nhiễm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

 

Trung Tâm Tiêm Chủng Vắc Xin Đồng Nai

Chúng tôi cam kết đem đến cho khách hàng cảm nhận hoàn toàn mới về dịch vụ tiêm chủng với tiêu chí chất lượng dịch vụ hoàn hảo.

Địa chỉ: 1302 (số cũ 138) Nguyễn Ái Quốc, KP8, P Tân Phong, Biên Hoà, Đồng Nai

Hotline: 0251.626.9999

Email: [email protected]

Website: https://trungtamvacxindongnai.com

Facebook:  https://www.facebook.com/vacxindongnai

 

Bạn cần
hỗ trợ